Bạn đang xem: Thực tại là gì
he fled trứ
Theo phật giáo, tâm tư duy (tâm phan, như vệ tinh quảt, ịnh tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh radrong không gian thời gian, nhưng ảnh tt âm ềng (lề ề ề ềng (lề ề ề ềng (lề ề ềng (lề ề ềng (lề ề ềng (lề ề ềng (lề ề ềng (lề ề ềng (lề ềng (lề ề ềng (lề ề ề ề vũ trụ) vượt thời gian không gian.
trong thuyết tương Đối tổng quát suy rộng của einstein, không-thời gian và vũ trụ không tồn tại độc lập với nhau. govinda cũng nói, “linh ảnh nằm trong một không gian nhiều chiều hơn và vì thế nó phi thời gian”. không-thời gian của vật lý tương ối cũng là một không gian phi thời gian, có chiều cao hơn, trong đó mọi phản ứng ều li li-hệ với ng nhau, nhưng. sự tương tác cc hạt (particles) chỉ có ttể lý giải trong khái ni ệm nguyên nhân- kết quả ghi trên biểu ồ ồ ồ ồ ồ ồ ị ịị ị . . nhưng một khi những dữ kiện này ược quan niệm trong một cấu trúc bốn chiều, không có một hướng thời gian nhất ịnh, thì không vìỻ cái tr, thì không vìỻ cái tr,.
trong các bài thuyết giảng upanishad: nơi có nhị nguyên, là nơi có một cái thấy một cái khác; một cái ngửi một cái khác, một cái nếm vị một cái khác… nhưng nơi mà tất cả đã trở về tự tính của nó, thì cái gì thấy? cái gì ngửi và cái gì bị ngửi? cái gì nếm và cái gì bị nếm? cái gì cảm nhận? tất cả từ tâm tưởng, lời của heraclitus: “cái lạnh sẽ nóng dần lên, cái nóng nguội đi, cái ướt khô dần, cái khô thành ư.” sách bích nham lục nói, “tất cả càn khôn đại địa chỉ là cái chính mình. lạnh thì khắp trời đất lạnh. nóng thì khắp trời đất nóng…”
trang tử nói: mối liên hệ của tôi với thân và các phần tử của thân đã tan biến. giác quan của tôi đã bị dẹp bỏ. tôi cứ để cho thân tâm đi ngao du, tôi thành một với cái đại khối xuyên suốt. tôi gọi nó là an tọa và quên mọi chuyện. Đó là sự nắm bắt cuối cùng sự nhất thể mọi sự. Theo Trình Bày Của Các nhà ạo học thì ta ạt tới nó Trong dạng một tâm thức, Trong đó ca thể with người đã tan vào một nhất thể vô phân biệt bỏi ằNg sau thế gi u .”
trong ạo của vật lý, Fritjof Capra Viết: Trong Khoa Học, Khi Nghiên cứu những mô hình của vật lý hạ nguyên tử, ược thấy chuj luôn luôn phat biểu bằng nhiều cach khác khác nhau, dẫn ki duy nhất : đó là các thành phần vật chất và những hiện tượng tham gia, tất cả đều nằm trong một mối liên hệ với nhau và phụn thu haệ; chúng không thể được xem là đơn vị độc lập, mà là thành phần bất khả phân của một cái toàn thể. trước hết tôi xin trở lại sự phân biệt giữa cơ cấu toán học của một lý thuyết và cách lý giải bằng ngôn từ của nó. cơ cấu toán học của thuyết lượng tử đã ược nhiều thí nghiệm khẳng ịnh và ược thừa nhận là nhất quín và chynh xác ể ể mô tất cả cc hiệng ngug tượng tượng tửng. thế nhưng cach lý giải bằng ‘ngôn từ ngữ’ của nó, tức là ý nGhĩa triết học của thuyết lượng tửi lại chưa có mộc t cơ v thực tế là nhà vật triết lý rõ rệt về nó. chúng chỉ là sự lý tưởng hóa; trên thực tiển thì chúng có ích, nhưng không có ý nghĩa đích thực.
tất nhiên nền vật lý hiện đại làm việc trong khuôn khổ hoàn toàn khác và không thể đi xa như thế trong việc chứng thực tính ực tính n.
Trong Vật Lýng Tử, Niels Bohr Nói, “Các Hạt Vật Chất ộC LậP CHỉ Có Trong Sự Trừu Tượng, Tinh Chất Của Chún Chỉ Cóc Có Có thể ịnh NGHĩA Và quan sat Trong tương tac vớt. những câu sau đây của david bohm, một trong những người chống lại trường phái copenhagen , khẳng định hùng hồn thực tế này: ta phải tiến đến khái niệm của một cái toàn thể bất khả phân, nó phủ nhận ý niệm cổ điển chuyên nghiệp phân tích thế giới ra những thành phần ộc lập và cách ly… ta quá bảo vệ quan điểm cũ về những hạt cơ bản, cho nó là thực tại đíc. những hạt đó. Đúng hơn, thực tại cơ bản là mối liên hệng tử, không cach ly ược của một cai toàn thể, và những thành phần tương ối ộc lập chỉ là những dạng ệc.
trong vũ trụ tự thức: làm thế nào ý thức tạo ra thế giới vật chất (The Self-Aware Universe: How Consciousness Creates the Material World,) giáo sư vật lý tại ại học à vià lûà oregon Viện Khoa Học Lý Thuyết, Tiến sĩ Amit Goswami: Thế Giới quan của khoa học ngày nay cho rằng tất cả mọi thứ ược tạo ra từt vật, và tất cả mọi thứ có thể ược tố phần cơ bản, khối tạo dựng, của vật chất. và nguyên nhân phát sinh từ sự tương tác của các khối tạo dựng cơ bản đó, hạt cơ bản tạo ra nguyn tử, nguyên tử tạo tử, tạ. tuy nhiên, tận cùng thì nguyên nhân cơ bản luôn luôn là sự tương tác giữa các hạt cơ bản. Đây là niềm tin cho rằng tất cả các nguyên nhân bắt nguồn từ các hạt cơ bản. Đây là những gì chúng ta gọi là “nhân quả hướng lên”. vì vậy, trong quan điểm này, những gì mà chúng ta nghĩ là ý chí tự do không thực sự tồn tại. nó chỉ là một hiện tượng phụ, thứ cấp, đứng sau sức mạnh nhân quả vật chất. và bất cứ ý định nào liên quan đến kiểm soát vật chất bằng ý thức chỉ là một ảo tưởng. Đây là mô hình nhận thức thực tại.
chân không, có thể hiểu đại khái, tạng luận tư nghị về triết lý, nhân sinh quan và xum la vạn tượng trong vũ trụ. Chi tiếc hơn, tạng luận ưa ra các cach luận giải và pHân tích các hiện tượng trên phương diện vũn học, triết học, siu hình học, tó về bản chất của vũ trụ v à người. tÓm lại, chủ đÍch của tạng luận là mang lại cho chÚg vận hành quy ước và nhị nguyên của tâm thức.
trong sự phát triển của ại thừa, tiết iv a lại da duyên khởi luận, “thuyết thật tướng của hai ngài mã minh và long thọ, thông hiện khện cện c. qua đến thời đại pháp tướng học, hai ngài vô trước và thế thân, lại thuyết minh như lai tạng bằng nghĩa [thực tạu hại] chân nh.
từ trước, hàng tiểu thừa chỉ thành lập có sáu thức là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và Ý thức. song sáu thức là những tâm lý sanh diệt, vô thường. như năm thức trước chỉ do sự kích thích của ngoại giới mà tả tượng vào nội tâm. chúng không có những tác dụng tinh thần như: so sánh, suy luận hoặc truy niệm cảnh qua khứ. có đủ những tác dụng ấy và chiếm được địa vị trọng yếu, duy có thức thứ sáu mà thôi. nhưng dòng ý thức của mổi cá nhân cũng là một thứ tâm lý có gián đoạn một chiều (serial,) niệm trước đã qua, ni ệm sau mới ến g. cơ thể chúng ta được cấu tạo bởi ngũ uẩn với tương quan một chiều; chúng ta chỉ có khả năng thực thi một chiều chứ không có thểxử lý đa dạng và khi chúng ta chết rồi thì ý thức đó cũng tiêu tan?
nếu không tiêu tan, thế thì cái gì duy trì nghiệp lực làm cho nó không gián đoạn sau khi chúng ta chết? ta thấy nhiều người giảng thuyết về vấn đề này rồi. nghe để là nghe như vậy thôi chứ ‘thực tại’ có biết, có thấy voi ở đâu mà mò?
lý do trên là nguyên nhân thành lập ra a lại da thức của phái Đại thừa. A lại da Co nGhĩa: Hàm tàng thức hoặc chủng tử thức, là một tâm thể chứa ựng tất cả chủng tử của vạn hữu, làm cội gốc duy trì và mở mang ra hi hi sáng lập ra thuyết a lại da duyên khởi là giáo phái pháp tướng, cũng gọi giáo phái duy thức. ngoài sáu thức của tiểu thừa, phái nầy lập thêm hai thức nữa: mạt na (màna) thứ bảy, và a lại da (alaya) thứ tám. mạt na có nghĩa: chấp ngã, một tâm lý lầm nhận cái ta (ngã) là thực tại có thật.
theo nhà duy thức, nếu nói chân như làm duyên khởi cho vạn hữu, là không hợp lý. bởi chân như thì binh đẳng đồng nhất, mà vạn hữu thì muôn hình sai biệt. vậy căn nguyên phát khởi các hiện tượng muôn vàn sai biệt ấy, tất phải do muôn vàn chủng tử sai biệt. nơi chứa đựng các chủng lượng tử nầy là thức a lại da, và a lại da làm nhân duyên phát khởi các pháp, nên gọi ọi ọi là da lại. chính thức a lại da nầy cũng do nhân duyên mà thành. từ vô số kiếp ến giờ, do nghiệp nhân lành dữ huân tập, no vẫn luôn luôn sanh khởi không gián đoạn, chứa ựng tất cả mọi chủng tử và có a lại da có lại gives thức. a lại da của chúng sanh có tính ‘cách biệt.’ a lại da của như lai có tính ‘cách đồng.’ a lại da của chúng sanh vô thủy hữu chung. a lại da của như lai vô thủy vô chung. a lại da của chúng-sanh thuộc biến kế chấp tánh. a lại da của như lai thuộc viên thành thật tánh.
Xem thêm: Bảng Nutrition Facts FDA
duy thức tông lậpra ba tánh: biến kế chấp, y tha khởi và viên thành thật. and tha khởi là các pháp do nhân duyên sanh khởi, đứng địa vị trung tâm. trên y tha khởi mà lầm nhận có không, đoạn thường, sanh diệt, quay cuồng theo hiện tượng là biến kế chấp. trên y tha khởi mà tiêu diệt những quan niệm ấy, là viên thành thật. trong a lại da thức của chúng ta chứa đủ chủng tử mê và ngộ.
tóm lại, thuyết a lại da duyên khởi đứng về mặt diệu hữu mà thuyết minh như lai tạng. thể tướng a lại da nầy làm nhân duyên cho nhau sanh khởi vô cùng; trong vô thường ẩn lý chân thường, trong sanh diệt ẩn lý phi sanh diệt, mê cùng ngộ chỉ bởi nơi người mà thôi. cho nên lời văn trong bài tựa kinh lăng già nói, “tâm không rời thức, hằng niết bàn nơi sự diệt sanh; thức chẳng lìa tâm, uổng sống chất trong vòng thường trụ” là chỉ cho ý nghĩa nầy vậy.
Theo Truyền Thống thì tạng luận bắt ầu ược hình thành từi kỳ ức phật còn tại thế và ma has ca diếp đp lại trước khi khi khi kết th moment văn phong, và các cach cach cach cach cach cach cach cach cach cach cach cach cach cach cach tác rất muộn về sau này mà thôi. Điều này thật hiển nhiên và cũng đã được chứng minh trên thực tế: các bài bình giải trong tạng luận là do nhiều vị đại sư trước tác, và các tạng luận do các học phái khác nhau đưa ra cũng không hoàn toàn thống nhất. Đây là chuyện lịch sử, điều may mắn chung sinh là nhờ tiền nhân đã cố sức duy trì, nhờ vào văn minh của khoa học hiện ại và nhất là nhờ Internet với sự đeg ta có được những tài liệu phật pháp quý giá để tham khảo, học hỏi, và tư nghị nhưng dù có học từ nhiều kiỿhỿ hỺp họn khn
trong ạo của vật lý của fritjof capra, tiến sĩ nguyễn tường bách viết trong phần lời người dịch: ặc trưng của nền vật lý hi ại trong thế 20th là s ° ra những your. thế nhưng, khi ến canh cửa cuối cùng mở ra ể thấy bộ mặt thật của vật chất, nhà vật lý phat hiện vật chất hình như không phắng ựng chạn ữn ữn ữn ữn tại khác. vì thế mà vật chất mang những tính chất hầu như ối nghịch nhau, nó vừa liên tục vừa phi liên tục, vừa hữu hiệa phi hữu hiện, dạng xuất hija nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó c. những tính chất lạ lùng đó đưa ngành vật lý vào thẳng cửa ngõ của triết học: nền vật lý hiện đại vừa thống nhất và lý giải nhiều khái niệm cơ bản của triết học, vừa đề ra những câu hỏi lớn của loài người mà các nhà đạo học từ xưa tổng kết. và kỳ lạ thay, những phát hiện hiện nay của nền vật lý hiện đại không khác bao nhiêu so với những kết luận của các thánh nhânh xân. (Cuốn Sách là bản dịch việt ngữ của “The tao of physics” [ạo của vật lý] của tac giả fritjof capra, bản in lần thứ ba, do flamingo xuất bản nĂm 1982, dịch giả nguyễn tường.>
trong thế giới quan pHật giáo, cư sĩ Truyền bình diễn tả rất trung thực, “phật giáo thật ra không có cr thế giới quan, bởi vì đã nói thế giới là không có cr tật, chỉ thì làm gì có thế giới quan. vậy nói thế giới quan là nói theo vọng tưởng của chúng sinh, mục đích là để phá chấp thật chứ không phải để mô tả chân lý. nói “thế giới quan pHật giáo” tức là đã nói không hoàn toàn đúng sự thôt, không đúng thực tướng của vấn ề, vì “ộng ni ưởc quai” (动念 乖 即 即 即 即 ệ giống như phật giáo thường nói: phàm cái gì có thể dùng lời nói, ngôn ngữ ể diễn tả ì ều không có nghĩa thật.
tính chất và sự hiện hữu của tất cả vật thể trong vũ trụ xuất phát từ những phản ứng (reactions) và mối tương quan củn du mhânà. tự nó không có gì cả, từ không ra có rồi từ có trở về không. cho nên, nếu chúng ta hiểu riqut thực tại: nhân lẫn pháp ều như huyễn, vô tự tánh, vô sắc tướng thì không còn bị quay cuồng mê chấngấp the xum tạn la. lúc đó, tâm thức sẽ bình yên, an tịnh; phiền não sẽ được tiêu diệt đưa đến giải thoát khỏi khổ đau; rồi từ đó lần lần sẽ sanh ra giác ngộ. vậy thực tại từ mê đến ngộ thực ra rất đơn giản chỉ là sự thay đổi quan niệm của tâm ý thức.
do đó, mục đích ầu tiên trong truyền thống phật giáo là điều chỉnh lại ầu Óc cho đúng với mục đích thực tại, bằng tđn cách thiền l. từ Sanskrit của thiền quán là samadhi, có nghĩa sự thăng bằng tâm linh. Nói ến trạng thati, Trong đó with người chứng thực ược sự nhất với vũ trụ: khi giác ngộ và hội nhập cai biết thấy của pHật (khai, thị, ng ộp ượp ượ của pháp giới và chữ không của vũ trụ, đạt ngộ tri kiến phật viên mãn.
thiền vipassanā gọi trở về thực tại là chánh niệm, và thiền tông gọi là thân tâm nhất như hay vô niệm. tâm có chánh niệm thì không lang thang hướng ngoại hay không bỏ quên thực tại thân tâm, tức không rơi vào thất niệm, tạp niệm hay vệmng ni.
chánh niệm là yếu tố có sẵn trong bản chất của tâm, nhưng vì cái ta ảo tưởng chạy theo vọng niệm nên mới thất niệm. do đó, khi buông cái ta ảo tưởng xuống thì lập tức chánh niệm trọn vẹn với thực tại hiện tiền.
khi tâm rỗng lặng hồn nhiên, không ý niệm, thì chánh niệm là trọn vẹn với thực tại “không là gì cả” tức tánh không (suññatā) cap.
khi tâm an nhiên tự tại, ở trong pháp mà không dính mắc pháp nào, thì chánh niệm là trọn vẹn với thực tại toàn diện (sabbat thatā) vĩa mô cệp.
khi tâm đang chú ý vào một sự kiện nổi bật đang diễn ra nơi thân-tâm-cảnh thì chánh niệm là trọn vẹn với thực tại như thị (Sabhāva) VI
tuy nhiên, không nên chủ quan ể mong ược viên diệu với thực tại tánh không (suññatā) hoặc thực tại toàn diện (sabbbatthā) vĩ mô, vì cho rằng tđc ” thân-thọ-tâm-phác. vì đó là tù cảm nhi ứng của tâm có khả năNg Tùyên thuận phapc, chứ không phải là tâm còn pHân biệt ‘không hiện tại’ mà không khởi một ni ệm phân biệt nhị nguyn nào, bởi vì một nii đi là đ đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, đ – r, đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, đ -r, mouse, cat, camn, cat, cata, cata, tasting, tasting, tasting p.đốn tiệm… của lý trí vọng thức, đó chính là là lúc hình thành cái ngã ảo tưởng.
vi như nghe ‘tiếng vỗ của không bàn tay’ thì ngay lúc đó thì cứ yên lặng mà nghe với tánh nghe chứ không cần pHải chấm dứt tiếng vô thanh, vì khi ta khởi tâm tâm thì tâm ta không còn ‘an tĩnh’ nữa!
trở lại sự kiện thực tế, chúng ta thử xem xét một vài tình luống điển hình: khi ta đang quán niệm hơi thở, t đt ột -gi -gi -gi -gi᩺჻ chon ho y ộng thở diễn ra một cách tự nhiên như nó đang là (to be,) ừng cố gắng kiểm soát hay làm chủ nó vì như vậy là đã xen cái tâm viên ý m m m. hãy để bộ phận hô hấp làm công việc tự nhiên sở trường của nó. NếU CHUNG TA TậP Kỹ Thuật Thở Theo Bất Cứ Dưỡng Sinh, Yoga, Thiền There are Khí Công Gì đó Tùy Nu Cầu Thiết Thực Của Riêng ta cũng điều tốt cả, nhưng nếu chung ta xem đ , Dù lúc đó tâm tac có thể ổn ịnh cao nhưng không hẳn là tâm đang trọn vẹn với thực tại, vì tâm ịnh vẫn còn bị các tưởng sắc và vô sắc che am, được một trạng thái lý tưởng. khi tâm ta đã mở ra trí tuệ phật thấy thực tánh pháp thì ta sẽ không còn xem bất kỳ trạng thái nào là lý tưởng nữa. Điều tối quan trọng, nên nhớ rằng những phương pháp trên đây chỉ là phương tiện tạm bợ chứ không phản là chân hý vĩ. Đó chính là diệu ý tối thượng của câu “Ưng vô sở trụ!”
chánh niệm cũng còn có nghĩa là không phải là từ bỏ thuận dòng đời bên ngoài để chỉ an trú ngược dòng đạo bên trong. thực tại, đời sống là một sự tương giao với nhân duyên gắn bó không phân biệt trong ngoài. nếu ta sở trụ vào bên ngoài thì bỏ mặc bên trong, nhưng nếu sở trụ vào bên trong thì lại quên mất bên ngoài. như vậy là ta đánh mất tánh toàn diện của thực tại, để tự cô lập mình trong một đời sống phân ranh, đơn điệu.
khi biết thế nào là chánh niệm thì dù thực tại đó là hơi thở, là đi, đứng, ngồi, nằm, là tất cả thân hành; là những cảm giác hay cảm xúc khổ, lạc, hỷ, ưu, xả; là những trạng thái của tâm, là cái “không… là gì cả” hay là cái “tất cả” thì chiếu kiến ược thực tại chỉ là tùy nhân duyên, không cón tựhᱱhán quan thán. yếu tính cốt lõi của tâm thiền. tâm chánh niệm lặng lẽ trên mọi đối tượng mà không dừng lại ở bất kỳ đối tượng nào.
cho nên, ừng qua quan tâm chú niệm vào những trạng thati thân, thọ, tâm, phap, với tham vọng trụ tâm, với nỗc tìm kiếm đu gì sở ắc Vào một ối tượng there are một mục đích khiến ta phải phân tâm there
như đã ề cập ở trên, trở vền vẹn với thực tại hiện tiền chủ yếu là không ể ể tâm phan, Lang than hướng ngoại tìm cảt cach mêi mêi Trong tình vong thôn, thhn, thhn, thôn, th. trở về mải mê tìm lại cái tự ngã bên trong để cô lập mình với thế giới bên ngoài.
trong trở về thực tại, viên minh diễn giải về phương pháp thiền ịnh rất tuyệt vời: dù ta đang làm điều gì mà cũng không quên thìn thìnthi. Được như vậy, ta có thể ung dung, tự tại, giữa đạo và đời và khi làm gì cũng không ra ngoài chánh niệm nơi thực tánh pháp hi tự n. ba yếu tố tinh tấn, niệm và định thuộc về định phần trong bát chánh Đạo. yếu tố tinh tấn thuộc về động, yếu tố định thuộc về tĩnh, còn chánh niệm vừa động trong tĩnh, vừa tĩnh trong động, cho nên chánh niệm có khả năng ổn định một cách uyển chuyển tự nhiên, không cần dụng công tọa thiền hay nhập định gì cả mà tâm vẫn an nhiên tự tại.
Xem thêm: Quần ống côn là gì? Quần ống côn nam nữ và cách phối CHUẨN GU mặc đẹp
theo tôi, đây là cái thâm diệu vô cùng vô tận của phật giáo thiền so với những phương pháp thiền khác. tuy nhiên, bất cứ phương pháp thiền nào của ngoại ạo cũng ều có kết quả tốt ẹp cho sức khoẻ tâm thân tùy theo căn cơ, nhân duyẻ cp ván. dĩ nhiên, phật giáo không chống đối hay phủ nhận sự ích lợi bản thân của tu thập thiền nhưng đã là phật tử dù tu tập bất cứ loại thiền định nào thì nên nhớ rằng: Đức thế tôn lúc mới tầm đạo đã học qua những phương pháp tu thiền này, ngài đã thành đạt tứ thiền cao nhất và trước cả các bật thầy đã dạy mình nhưng không thấy đó là thực tại rốt ráo nên tự mình đi tìm chân lý, đại giác ngộ và trở lại giảng dạy và chỉ điểm cho những bật tu sĩ đã dạy mình lúc trước. những phương pháp thiền khác dễ có kết quả mau chóng hơn phương pháp thiền tông phật giáo vì bướt đầu nhờ dựa vào tha lực. tuy nhiên, những phương pháp thiền này có thể giúp ta an tâm, bớt khổ đau đạt tới ngũ thông nhưng không thể đạt được lục thần thông, nên khó mà phá nổi vòng thập nhị nhân duyên, tận nhân quả, và giác ngộ thành phật.
tôi không muốn đi sâu và ề cập ến vấn ề ề huyền diệu nhey nhưng gần đy có một số ộc giả đã liạc và hỏi tôi làm sao thể ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg thg ttg thg ttg thg thg thg thg ttg thg ttg định để khỏi bị tẩu hoả nhập ma? tôi không có ủ tài ức, trí tuệ và ức ộ ể ể giảng về điều này mà chỉ xin hồi hướng tới các bật chân tu và thiện tri th`chức tỉ c chon bi.
tuy nhiên, tôi đã không biết mà lại không chịu vòng tay ưa dựa cột mà nghe, lại hình như ‘nghe’ ược cai vô ar rồi lầm tưởng là ‘biếthết’ nên xin thưa thốt: cai bí mật là nếu chung ta biết ược vũ trụ thở ra, hút vào, co dé như thế nào mật theo như vậy thirt kiến phật?
cũng như tôi đã viết trong cuốn Sách phật giáo v ũ trụ quan, 12/08/2015: quan tựi tại bồ tát ‘hành thâm diệu viên giác’ bát trụ giai không’ mới ngoài tâm và ngoài cả tri kiến phật. khi đó mới ‘như thị viên giác’ (thấy rốt ráo với phi tánh sáng suốt tròn đầy) được tâm tướng là tâm không; không tâm là tướng tâm! dĩ nhiên là câu ‘Độ nhất thiết khổ ách’ của ngài trần huyền trang thêm vào trong bát nhã tâm kinh không cần thiết nữa.
như thảo luận ở những phần trên, trở về trọn vẹn với thân (niệm thân) tuyệt đối dễ. trở về trung thực với những cảm giác (niệm thọ) tương đối khó hơn. vì khi cảm giác khổ dấy lên ta thường muốn chấm dứt nó ngay, càng sớm càng tốt nhưng lại vô tình làm gia tăng và kéo dài mcái gic. khi có cảm giác an lạc ta thường muốn níu giữ nó lại càng lâu cáng tốt, vì vậy, biến nó thành nỗi khổ của cái tâm lo sợ sự mấi qun mát, biế. tâm phan càng lăng xăng, lắng giải quyết làm sao bám trụ There is loại bỏ thực tại với những cảm giác một cach chủ quan hời hợt bên ngoài thì bên trong những cảm giác ấm và tỉnh ngộ tại để nhận ra. Cho nên, ta chỉ vô tình bóp meo hoặc cố ý điều chỉnh những cảm giac tteo Ái dục của riêng ta hơn là trọn vẹn với bản chất thực tại của những tâm giá ấy.
chánh niệm đối với tâm (niệm tâm) chính là trở về với thực tánh của tâm chứ không để tâm chạy theo đối tượng cợng t. tuy nhiên, không để tâm phan duyên lang thang theo đuổi đối tượng bên ngoài không có nghĩa là ta bắt tâm dừng lại (định,) và cũng không nên quá quan tâm xem xét trạng thái tâm một cách đơn điệu như một đối tượng chọn lựa, vì như vậy ta không thấy được tâm trong tình huống tự nhiên của nó. ta chỉ cần trở về ngay nơi hiện trạng diễn biến của tâm ngay khi nó đang sinh khởi there are hoại diệt là ược, tự nó ến đi, không cần pHải dụng công lo la This that tả. lúc đó, có thể ta sẽ thấy ra tự tánh pháp (sabhāva dhamma) ngay nơi thực tại với thân tâm huyễn hóa này. (trở về thực tại, viên minh)
đó là lý do vì sao ức phật dạy hãy trở về mà thấy sự thật (ehypassiko) ngay nơi thực tại hiện tiền (sandiṭhiko,) bởi ngoài bản tâm Thanh tịnh không còn tđhìt õ ì ình ” đời vô thường tạm bợ này để làm nơi nương tựa:
“nương tựa nơi chính minh, không nương nhờ ai khác. tâm thuần tịnh mới là nơi nương nhờ khó được” (pc. 160)
chức nĂng của chánh niệm là ưa tâm trở vềc tại, there are nói cach khác là giải thoot tâm ra khỏi những hệ lụy đánh mất mình -trong điê ản ản ả ảo mộo.
strong trở về thực tại, viên minh viết, cụ thể là chánh niệm trong thiền định giúp ta:
* chánh niệm là trở về với thực tánh phÁp (sabhāva) nên không còn bị trói buộc trong tưởng điên ảo (viparita saÑañā) hay tâm ảo hóna (vipallatt) c. /p>
* Sống an nhiên tự tại: nguyên nhân của tâm bất an, bất tại, quên mất chính mình, là do thất niệm there are tâm tạp niệm, nghĩa là tâm bị lôi cuốn về qua qua khứ hoặc đắm chìm trong hiện tại. khi chánh niệm trọn vẹn với thực tại ở đây và bây giờ thì mọi ý niệm thời gian đều tự động biến mất không còn dấtu v. ngay đó tâm hoàn toàn tự do, thoát khỏi mọi áp lực của thời gian tâm lý. vì vậy, người sống trọn vẹn với thực tại luôn được thanh thản, thoải mái, an nhiên, tự tại.
* trí nhớ ít suy giảm: khi bị căng thẳng hay dính mắc vào một điều gì người ta thường hay quên, hay đãng trí. trái lại, người có chánh niệm ít bị áp lực của sự dính mắc, căng thẳng, nên tâm được khinh an thư thái nhờ đó trí nhớn. tất nhiên trí nhớ còn tùy thuộc vào sự lão hóa của tế bào não, nhưng chính sự phân tâm, căng thẳng thúc đẩy tế bào thái não suy n.
* tâm định được dễ dàng: tâm định là tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh, nghĩa là dù ở trong ngoại cảnh tâm v. khi tâm đang bận rộn trong ham muốn, bực tức, tán loạn, trì trệ hay phân van lưỡng lự thì rất khó mà an ổn để chú tâm vào mệt hiệt tro. còn khi tâm có chánh niệm thì việc chú tâm vào thiền định hay chuyên chú vào công việc là chuyện rất dễ dàng.
* bảo toàn được nguyên khí: chánh niệm chính là nguyên lý “tinh thần nội thủ” trong and học cổ truyền phương Đông. theo nguyên lý này thì khi tâm trở về trọn vẹn với chynh nó thì chân khí không những không bị phân tán, mà còn ược bảo toàn nguyên vẹnc là, tứnc là.
* làm chủ được thân tâm: người tinh thần bị phân tán đã không thể chú tâm thì làm sao có thể làm chủ được thân khẩu ý. giống như một người lái xe bị ngoại cảnh chi phối không thể điều khiển tốc độ hay hướng đi thích ứng được ấn gấn and rtain. còn người chánh niệm không cần cố gắng vẫn có thể tự chủ một cách dễ dàng tự nhiên.
thực tại là một rừng 84000 kinh điển và sách vỡ thảo luận của khoa học hiện ại, tó lại họ đ đt trí về những gì há phạ. (uncertainty,) vô sở (non-locality), vô trụ (no space), tính linh (virtual intelligent),…với những lối giải thích logic khoa học, dể hiểu và thích hợp hơn cho kiến thỰtcúngà và ta bay giờ.
dễ hiểu, thích hợp hơn chứa chắc là đúg với thực tại, Theo tôi dùng kiến thức tích lũy dựa trên dụng cụ đo lường của ngũ uẩn ể kham đã sai rồi. cang noi cang sai, cang sai cang viết, cang viết cang sai. dĩ nhiên, độc giả và những khán thinh giả càng nhe, càng đọc, càng thấy, càng không biết thực tại là cái quai gì nữa vì nó cỡy, qu ‘sai ng trang
vì bản thể là một thực tại tuyệt ối, nên thực tại tuyệt ối luôn luôn là bất khả thuyết, nhưng ngay bản chất giới hạn của ngôn ngữ biểu tượng cũng tiến trình biểu tượng và tiến trình bản thể thực tại, chúng không những không đánh mất tinh thể của ngôn ngữ, mà còn mang lại cho ngôn ngữ một giá trị như là một con đường đi đến tuyệt đối của bản thể qua giả danh.
như đã ược ề cập ở trên, phật giáo và pHân tâm học công công nhận dòng tâm ý thức của mổi ca nhân cũng là một thứ tâm lý thường gián đoạn với Hình như, đa số kinh điễn pHật giáo quan ni ệm rằng cơ thể của mỗi ca nhân ược cấu tạo bởi ngũ uẩn với tương quan một chiều cho nên “mỗi chung ta” chỉ co kh ề n. tâm niệm trước đã qua, ý niệm sau mới đến chứ không phải nhiều thức niệm đến cùng một lúc. “mỗi chúng ta” chỉ có khả năng thực thi nhiệm vụ một chiều chứ không có thể xử lý đa dạng.
Theo Tôi NGHĩ, NHữNG CảM NGHĩ TRên Chỉ đUng Cho Mỗi Cá nhân, Cho Mỗi Cái Tiểu Ngã Còn ích Kỷ Vô Minh Chưa Biết MụC đích và nhiệm vụa “mỗi chúsg ta” ộNg củ bà này. thực tại là vũ trụ, chúng sinh lẫn nhân sinh không phải được cấu tạo một chiều mà là nhiều chiều song song, cùng một lúc với mịt qun. NếU “Mỗi chung ta” không còn sở trụ và ích kỷ vào chấp ngã thì “chung ta” sẽ tái thôn thông co khả năng xử lý đa dạng và sẽ giác ngộ ược lý do hi hi hi hi hi hi
vì vậy, ngay cho đến bây giờ, thực tại của “mỗi chúng ta”không phải là with khỉ khô gì cả. vì with khỉ khô gì cả đó không phải là thực tại. Đó là thực tại!
tóm lại, thực tại có nghĩa là nói nghĩa như vậy chứ không phải thực tại nghĩa như vậy. thực tại nghe như vậy chứ không phải thực tại âm thanh như vậy. thực tại thấy như vậy chứ không phải thực tại giống như vậy. ‘như như thực thực tự tại thực nhưvậy,’ cho nên thực tại ược cảm nhận như vậy và dường như thực tại là ấn tƺn! Đó là “như thị tri kiến thực tại.”
(04/24/2017)
Xem thêm: Hào quang là gì và ý nghĩa hào quang của con người